*** Căn cứ khoản 6 Điều 8 Nghị định 126/2020/NĐ-CP: “d.2) Cá nhân cư trú có thu nhập từ tiền lương, tiền công ủy quyền quyết toán thuế cho tổ chức, cá nhân trả thu nhập, cụ thể như sau:
Cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công ký hợp đồng lao động từ 03 tháng trở lên tại một nơi và thực tế đang làm việc tại đó vào thời điểm tổ chức, cá nhân trả thu nhập thực hiện việc quyết toán thuế, kể cả trường hợp không làm việc đủ 12 tháng trong năm. Trường hợp cá nhân là người lao động được điều chuyển từ tổ chức cũ đến tổ chức mới theo quy định tại điểm d.1 khoản này thì cá nhân được ủy quyền quyết toán thuế cho tổ chức mới.
Cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công ký hợp đồng lao động từ 03 tháng trở lên tại một nơi và thực tế đang làm việc tại đó vào thời điểm tổ chức, cá nhân trả thu nhập quyết toán thuế, kể cả trường hợp không làm việc đủ 12 tháng trong năm; đồng thời có thu nhập văng lai ở các nơi khác bình quân tháng trong năm không quá 10 triệu đồng và đã được khấu trừ thuế thu nhập cá nhân theo tỷ lệ 10% nếu không có yêu cầu quyết toán thuế đối với phần thu nhập này."
*** Căn cứ quy định nêu trên, cá nhân X được ủy quyền quyết toán thuế TNCN năm N cho công ty A nếu:
1. Tại thời điểm công ty A nộp nộp tờ khai quyết toán TNCN năm N của công ty A (chậm nhất là ngày 31/3 năm N+1), X chỉ có HĐLĐ từ 03 tháng trở lên với A (tức X không có HĐLĐ từ 03 tháng trở lên với bất kỳ công ty nào khác, vẫn có thể có HĐ Dịch vụ ở các nơi khác).
2. Tại thời điểm công ty A nộp nộp tờ khai quyết toán TNCN năm N của công ty A (chậm nhất là ngày 31/3 năm N+1), X thực tế đang làm việc tại công ty A.
3. Nếu X có (i) thu nhập vãng lai nơi khác bình quân tháng không quá 10 triệu đồng (thu nhập không phát sinh từ HĐLĐ dưới 03 tháng, HĐ dịch vụ hoặc không có HĐ); (ii) tất cả thu nhậpđều đã được khấu trừ 10% TNCN; (iii) nhưng X không yêu cầu quyết toán phần thu nhập vãng lai này.